[Tư liệu] - Hồ sơ các huyền thoại Barça

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Mỗi thời kỳ vinh quang của FC Barcelona đều gắn liền với các tên tuổi lớn đã làm say lòng những người hâm mộ, nhận được sự ngưỡng mộ của đối thủ trên sân. Họ là những cầu thủ ít nhiều đã gắn bó tên tuổi và vinh quang của cuộc đời mình với Barça. Topic xin giới thiệu những người hùng của các cổ động viên.

Cập nhật hồ sơ các danh thủ đến 06/2023.

2022-05-20_FCBvsREIALSOCIETAT_134.jpg

Sergio Busquets
PIQUE_007-min.JPG

Gerard Pique
LeoMessi20092010_pic_fcb-arsenal62.jpg

Leo Messi
SUAREZ-56-min.jpg

Luis Suárez
39537642.jpg

Andres Iniesta
Dani-Alves.jpg

Daniel Alves da Silva 'Dani Alves'
4691622.jpg

Xavi Hernández
4696525.jpg

Victor Valdés
3965444.jpg

Carles Puyol
4665030.jpg

Samuel Eto'o
4584451.jpg

Anderson Luis de Souza ‘Deco’
4664952.jpg

Ronaldo de Assís Moreira ‘Ronaldinho’
Patrick-Stephan-Kluivert.jpg

Patrick Stephan Kluivert
14908659.jpg

Vitor Borba Ferreira 'RIVALDO'
4584399.jpg

Ronaldo Luiz Nazario
3931180.jpg

Luis Enrique Martínez
15507863.jpg

Sergi Barjuan
4585413.jpg

Romario da Souza
4667280.jpg

Hristo Stoichkov
4585894.jpg

Josep Guardiola
4585829.jpg

Ronald Koeman
4696590.jpg

Aitor Beguiristain 'Txiki'
4587325.jpg

Guillermo Amor
4587039.jpg

Michael Laudrup
4587520.jpg

José Mari Bakero
15264076.jpg

Andoni Zubizarreta
15264092.jpg

Diego Armando Maradona
15264087.jpg

Francisco Javier González Urruticoechea 'Urruti'
3729744.jpg

Bernd Schuster
15264097.jpg

Enrique Castro, 'Quini'
15264902.jpg

José Ramón Alexanko
15264907.jpg

Francisco José Carrasco
15264912.jpg

Hans Krankl
15264917.jpg

Johan Neeskens
15264922.jpg

Miguel Bernardo Bianquetti 'Migueli'
20489661.jpg

Johan Cruyff
15265770.jpg

Joan Manuel Asensi
15265775.jpg

Antoni Torres
15265780.jpg

Carles Rexach
15265785.jpg

Francisco Fernández "Gallego"
15265790.jpg

Joaquim Rifé
15265901.jpg

Josep Maria Fusté
15265911.jpg

Eladio Silvestre
15265906.jpg

Julio César Benítez
15507835.jpg

Jesús Maria Pereda
15266130.jpg

Salvador Sadurní
15266251.jpg

Sandor Kocsis
15266487.jpg

Evaristo de Macedo
15266498.jpg

Ferran Olivella
15266603.jpg

Eulogio Martínez
2694063.jpg

Luís Suárez
15529094.jpg

Ramón Villaverde
15267129.jpg

Sígfrid Gràcia
15267246.jpg

Ladislau Kubala
15267251.jpg

Gustau Biosca
15267496.jpg

Joan Segarra
15267578.jpg

Antoni Ramallets
15267583.jpg

Estanislau Basora
15267588.jpg

Gonzalvo III
15507849.jpg

Josep Seguer
15267770.jpg

César Rodrígez
15267775.jpg

Mariano Martín
15267780.jpg

Josep Valle
15778065.jpg

Francesc Calvet
15267790.jpg

Josep Escolà
15778079.jpg

Martí Ventolrà
15267800.jpg

Ángel Arocha
15267905.jpg

Ferenc Platko
15267910.jpg

Vicenç Piera
15267795.jpg

Josep Samitier
15267915.jpg

Agustí Sancho
15507842.jpg

Emili Sagi-Barba
15267925.jpg

Ramon Torralba Larraz
15267920.jpg

Paulino Alcántara
15778072.jpg

Carles Comamala
15267785.jpg

Joan Gamper
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Paulino Alcantara

paulino-alcantara-riestra.jpg

Ông sinh ngày 07/10/1896 tại Philipine ( hình như đây là người châu Á duy nhất có vinh dự được chơi tại FC Barcelona cho đến nay). Alcantara nổi danh trong lịch sử FC Barcelona không chỉ bởi kỹ năng chơi bóng tuyệt vời mà còn là một chân sút thượng hạng.

Sinh tại : Iloilo (Philippines)
Sinh năm : 1896
Mất năm: 13-02-1964

Sự nghiệp cầu thủ

FC Barcelona (1912-1916)
Bohemians of Manila (1916-1918)
FC Barcelona (1918 - 1927) 37 trận với 34 bàn thắng
5 trận với Spanish Team có 2 bàn thắng

Theo thống kê, trong 357 lần ra sân trong màu áo Barcelona Alcantara ghi được tới 356 bàn( còn 1 bàn nữa chắc ông không ghi, để cho hậu thế còn có chỗ mà vươn tới). Cho đến nay Alcantara vẫn là chân sút số 1 trong lịch sử CLB xứ Catalan.

Ra sân lần đầu tiên ngày 14/08/1912 khi mới 15 tuổi trong trận đấu với Sabadell. Trận đấu này đánh dấu sự xuất hiện của một ngôi sao trong lịch sử Barcelona. Ông đã lập một hattrick, đóng góp vào chiến thắng đậm đà 8-2.

Trong những năm 1916-1918, Alcantara quay về Philipine chơi cho một đội bóng địa phương, nhưng tình yêu mãnh liệt với Barca đã kéo ông trở lại giải vô địch Tây Ban Nha.

Ông có vinh dự là người ghi bàn thắng đầu tiên trên sân Les Corts( sân VĐ cũ của Barcelona) ngày 20/05/1922. Một kỷ niệm đáng nhớ khác là bàn thắng sấm sét được ghi từ cự ly 35 yard vào lưới đội tuyển Pháp trong trận đấu giữa Tây Ban Nha và Pháp vào ngày 30/04/1922. Chính bàn thắng này mang lại cho ông biệt danh "Romperedes".

Sau 15 năm chơi cho Barcelona, ông quyết định ra đi và theo đuổi nghiệp bác sĩ. Mặc dù không thi đấu nữa nhưng Paulino Alcantara vẫn gắn bó với Barcelona trên cương vị giám đốc CLB từ năm 1931-1934. Ông qua đời tại thành phố Barcelona năm 1964.

Các danh hiệu đạt được:

5 Copa del Rey (1912/13, 19/20, 21/22, 24/25, 25/26)
10 Catalonia Championship (1912/13, 15/16, 18/19, 19/20, 20/21, 21/22, 23/24, 24/25, 25/26, 26/27)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Sandor Kocsis

1117846685_Kocsis.jpg

Sandor Kocsis sinh ngày 30/09/1929 tại Budapet, Hungary. Ông là một trong nhiều cầu thủ vĩ đại từng khoác trên mình chiếc áo đấu xanh-đỏ của Barcelona. Trong những năm 50 của thế kỷ trước, Kocsis là thành viên đội tuyển vàng của Hungary, từng đoạt HCV Olympic 1952 và lọt vào trận chung kết World Cup 1954( Hungary thua Đức 3-2).

Gia nhập Barcelona năm 1957 khi đã 29 tuổi cùng với Zoltan Czibor. Sự xuất hiện của Kocsis tạo ra bộ ba Hungary huyền diệu (cùng với Czibor và Kubala). Trong 9 năm thi đấu cho Barcelona, ông tham dự 194 trận đấu và ghi 140 bàn, cùng với đồng đội giành 2 cúp C2, 2 cúp Hội Chợ ( tiền thân của cúp C3) và hai cúp Tây Ban Nha.

Được mệnh danh là " Cái đầu Vàng" do khả năng dẫn dắt lối chơi, ông là một tiền đạo siêu hạng với những cú sút đầy uy lực bằng cả hai chân. Kỹ năng đi bóng và qua người của Kocsis là cơn ác mộng của hàng phòng ngự đối phương. Ông có cách cư xử lịch thiệp cả trong lẫn ngoài sân có khiến đồng đội và cả đối phương phải kính phục.

Mặc dù nhiều năm thi đấu đỉnh cao tại Barcelona nhưng Kocsis có một nỗi buồn không bao giờ được khoả lấp. Năm 1961, ông là thành viên trong đội hình Barcelona đá trận chung kết cúp C1. Đây là lần đầu tiên Barcelona lọt vào trận chung kết. CLB đã thất bại trước Benfica của Eusebio. Phải 31 năm sau, ông mới được chứng kiến Barcelona vươn lên đỉnh cao của châu Âu trong trận thắng Samporia 1-0.
 

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Evaristo De Macedo

1117847826_evaristo.jpg

Evaristo de Macedo sinh ngày 22 - 6 - 1933 tại Rio de Janeiro (Brazil). Giống như mọi đứa trẻ Brazil, từ nhỏ ông đã được sống trong một bầu không khí bóng đá cuồng nhiệt. Ban đầu ông chơi cho CLB Flamengo, sau đó thư kí kĩ thuật và cũng là cựu cầu thủ của Barca, ông Josep Samitier, đã phát hiện ra tài năng tuyệt vời của Evaristo và quyết tâm đưa cầu thủ Brazil này đến với Nou Camp . Và ở tuổi 24, Evaristo trở thành cầu thủ Barcelona.

Evaristo chơi trận đầu tiên cho Barcelona vào ngày 5 - 5 - 1957 trước đội bóng Đức Saarbruecken. Trận đó Barcelona thắng 4-1 và Evaristo đã thể hiện khả năng chơi bóng của ông cho cả thế giới thấy với 1 bàn thắng ngoạn mục bằng đầu. Ban đầu người ta cho rằng lối thi đấu của ông ko hợp khi đá cặp với Eulogio Martínez - tiền đạo lúc bấy giờ của Barcelona.

HLV Barcelona khi đó, ông Domenèc Balmanya, đã quyết định cho 2 người đá cặp với nhau, và đã thành công: cả 2 thi đấu hết sức ăn ý với nhau và trở thành cặp tiền đạo đáng sợ, đem đến cho đội bóng hết danh hiệu này đến danh hiệu khác.

Evaristo là một tiền đạo thiên bẩm với nền tảng thể lực tuyệt vời, sẵn sàng chơi dạt ra cánh nếu cần thiết. Ông chơi bóng với phong cách của 1 cầu thủ Brazil điển hình: đậm chất kĩ thuật và đôi khi hơi rườm rà. Chơi đầu tốt, khả năng cầm bóng và đi bóng tuyệt vời , có thể tung ra những cú sút sấm sét bằng cả 2 chân, đơn giản ông là nỗi kinh hoàng của mọi hàng hậu vệ.

Tài năng của ông được thể hiện rõ nhất qua những con số thống kê: ông là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất của Barcelona trong 2 mùa giải 1958-59 và 1960-61. Trong quãng thời gian chơi bóng cho Barcelona (1956 - 1962), ông chơi 219 trận và ghi 173 bàn thắng, tương đương với hiệu suất 0,8 bàn thắng/ 1 trận!
 

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Carles Rexach

rexach2.gif

Carles Rexach sinh ngày 13/01/1947 tại Barcelona. Ông tham gia vào đội trẻ của Barcelona từ năm 12 tuổi. Đến năm 18 tuổi Rexach đã được thi đấu ở đội hình chính của CLB với vai trò tiền đạo.

Sinh tại: Barcelona (Spain)
Ngày sinh : 13-01-1947

Sự nghiệp cầu thủ

FC Barcelona (1966-1981 ) : 638 trận với 197 bàn thắng

Thành tích:

Cúp C2: 1979
Cúp Hội chợ (C3): 1966
Vô địch TBN: 1973/74
Copa del Rey: 1968, 1971, 1978, 1981
Cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất TBN: 1971

Sự nghiệp HLV:

1988-1997 FC Barcelona assistent
1997-1998 Yokohama Flugels
2000- 2002 FC Barcelona


Dưới sự dẫn dắt của HLV Salvador Artigas, ông từng bước trở thành một chân sút vĩ đại trong lịch sử FC Barcelona. Tuy nhiên cách sống ngoài sân bóng của Rexach làm HLV không hài lòng. Sau một trận thua tại Sevilla, Rexach và Marcial bị HLV Marinus Michels không cho đi cùng CLB và hai cầu thủ này ăn mừng bằng một chai Cava trong khách sạn.

Rexach nổi tiếng vì khả năng thi đấu hiệu quả. Luôn bị cổ động viên Barca phê phán vì lối đá không hoa mỹ nhưng bù lại ông có kỹ năng giữ bóng tuyệt hảo, tầm quan sát tốt.
Không chỉ có thế Rexach có thể thi đấu tốt ở nhiều vị trí khác nhau. Trong đội hình Barcelona ông đảm nhận vai trò chuyên gia sút phạt đền. Nhưng tại trận chung kết cúp C2 năm 1979 tại Basle, Thụy Sỹ Rexach đá hỏng một quả phạt 11m, một thất bại hiếm hoi.
Lỗi lầm này được sửa chữa ngay sau đó khi ông ghi bàn thắng trong những phút đá bù giờ, giúp Barcelona giành chiến thắng trước Anderlect.

Trong 16 năm khoác áo Barcelona Carles Rexach đã thi đấu 638 trận, ghi được 197 bàn thắng, đoạt 1 chức vô địch Liga, 1 cúp C2, 1 cúp C3, 4 cúp Nhà Vua.

Sau khi treo giày, ông tham gia ban HLV Barcelona dưới thời Johan Cruyff và Luis Van Gaal. Sau một thời gian làm HLV tại Nhật Bản, Rexach trở về làm trợ lý cho Joan Gaspart, lúc này đã là chủ tịch CLB. Đến tháng Tư 2001, ông được chỉ định thay thế Lorenc Serra Ferrer trên cương vị HLV.Năm 2002 ông đã ra đi do không mang lại thành công đến cho Barca
 

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Joan Manuel Asensi


Asensi đuợc nhớ đến nhiều nhất như là một nguời đã phá kỷ lục ghi bàn của Barcelona trong những năm 1970. Chàng tiền vệ cánh trái có lối thi đấu rất khôn ngoan, có những cú sút đầy uy lực, và rất mạnh trong không chiến. Ông đã thi đấu 484 trận cho Barca và ghi đuợc 124 bàn thắng trong suốt thập kỷ 70.

Với tất cả những gì đã cống hiến, ông giành đuợc nhiều cảm tình của nguời hâm mộ xứ Catalonia cũng như là đồng đội.

Juan Manuel Asensi sinh vào ngày 23 tháng 9 năm 1949 tại Alicante. Ông bắt đầu đến với thế giới bóng đá khi chơi cho CLB Elche, năm ông mới có 17 tuổi. Lần đầu tiên khoác áo đội tuyển quốc gia TBN là vào năm 20 tuổi. Ngay sau đó ông ký hợp đồng với Barca, bản hợp đồng trị giá 80 triệu peta. Asensi, cùng với Cruyff, Rexach, Sotil và Marcial đã làm nên một mùa bóng 1973-1974 thành công rực rỡ, khi mà Barca giành chức vô địch và hơn thế nữa là đánh bại Real đến 5-0 ngay trên thánh địa Bernabeu.

Sau khi Cruyff rời CLB, Asensi tiếp nhận băng đội truởng. Trong vai trò đội trưởng đội bóng, ông đã cùng CLB giành được cúp C2 châu Âu vào năm 1979 tại Basla, khi Barca đánh bại Fortuna Dusseldorf 4-3 trong một trận chung kết đáng nhớ.

Trong mùa bóng 80-81, ông rời Barcelona để gia nhập CLB Puebla của Mexico, cùng đội với cựu ngôi sao của Madrid là Pirri. Sau đó ông còn gia nhập Oaxtepec truớc khi kết thúc sự nghiệp. Trận đấu cuối cùng của Asensi trong màu áo sọc đỏ xanh là trận đấu tôn vinh sự nghiệp của ông, giữa Barca và Puebla. Sau khi kết thúc sự nghiệp bóng đá, Asensi trở thành HLV cho đội trẻ của Barcelona từ năm 1984, và cùng với những nguời đồng đội cũ như Carles, Joaquim Rife và Antoni Torres, ông đã đào tạo ra nhiều cầu thủ giỏi, những cầu thủ sẽ thay ông tiếp tục đưa Barca lên đỉnh cao vinh quang.

Asensi cũng chơi 41 trận cho đội tuyển quốc gia TBN, tham dự Olympic 1968, WC 1978 và Euro 1980.
 

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Ronal Koeman - người đi vào lịch sử

Koeman.jpg


Mỗi khi nhắc tới trận chung kết cúp C1 thì không ai quên được anh chàng hậu vệ tóc vàng này với cú sút phạt mạnh như sấm sét đem về chiếc cúp C1 đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ.

Sự nghiệp cầu thủ khi thi đấu cho Barcelona
Số áo: 4
Vị trí: Libero
Số tiền chuyển nhượng: 12,5 triệu USD
1989/'90 Barcelona thi đấu 36 trận, ghi được 14 bàn, hiệu suất 0,39 bàn/trận
1990/'91 Barcelona thi đấu 21 trận, ghi được 6 bàn, hiệu suất 0,29 bàn/trận
1991/'92 Barcelona thi đấu 35 trận, ghi được 16 bàn, hiệu suất 0,46 bàn/trận
1992/'93 Barcelona thi đấu 33 trận, ghi được 11 bàn, hiệu suất 0,33 bàn/trận
1993/'94 Barcelona thi đấu 35 trận, ghi được 11 bàn, hiệu suất 0,31 bàn/trận
1994/'95 Barcelona thi đấu 32 trận, ghi được 9 bàn, hiệu suất 0,28 bàn/trận

Tổng cộng thi đấu 192 trận, ghi được 67 bàn. Nếu xét tất cả các mặt trận thì Ronal Koeman thi đấu 350 trận, ghi được 105 bàn thắng.

Thành tích:
1 cúp C1, 1 siêu cúp Châu Âu, 4 Liga, 3 siêu cúp TBN, 1 cúp nhà Vua.

Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo khó Zaandam của Hà Lan. Anh sinh ngày 21-3-1963, gia đình anh là một gia đình vốn có truyền thống bóng đá. Anh trai của Ronal Koeman là Erwin Koeman cũng là một cầu thủ chuyên nghiệp, vì thế anh đến với bóng đá rất nhanh. Năm 17 tuổi anh bắt đầu sự nghiệp cầu thủ của mình với tư cách là 1 cầu thủ chuyên nghiệp. FC Groningen chính là nơi khởi đầu của Ronal Koeman, tại đây anh được các cổ động viên vẫn gọi một cách trìu mến là " Người hùng của hàng phòng thủ".

Tài năng ngày càng được bộc lộ ở cầu thủ trẻ Ronal, với vóc người cao to Ronal Koeman luôn tạo ra sự an toàn cho đồng đội bởi các pha tranh chấp, không chiến với đối phương và phần thắng thường thuộc về anh. Các câu lạc bộ lớn của Hà Lan bắt đầu để ý và nhòm ngó Roanl Koeman như Ajax Amsterdam, PSV....Và Ajax Amsterdam đã nhanh chân hơn bất cứ đối thủ nào khác, họ đã giành được chữ ký của chàng hậu vệ này. Ronal Koeman thi đấu cho Ajax Amsterdam từ năm 1983 cho tới năm 1986 sau đó chuyển sang PSV với giá 1,5 triệu USD. Các danh hiệu lần lượt đến với anh ở đây. Đặc biệt là chiếc cúp C1 cùng PSV mùa bóng 1987/1988 .

Barcelona luôn cố gắng để lôi kéo hậu vệ tài năng này về, và họ phải chi tới 12,5 triệu USD để có được Ronal Koeman vào năm 1989.

Koeman1.jpg

Koeman trong màu áo Barca​

Johan Cruyff đặc biệt coi trọng Ronal Koeman và coi anh là 1 thành phần trụ cột không thể thiếu trong Dream Team sau đó. Chơi cho Barcelona anh thi đấu như một hậu vệ giữa được hỗ trợ bởi 2 hậu vệ chuyên kèm người là Nadal và Albelardo. Anh chính là người chỉ huy hàng phòng ngự nhưng cũng chính là người phát động những đợt tấn công cho các cầu thủ Barca. Nhiều trận đấu Barca bị ép sân một cách dữ dội, Ronal Koeman cùng đồng đội thi đấu quả cảm như những chiến binh dũng cảm nhất, lăn xả quyết liệt nhất và chỉ cần bóng đến chân anh thôi là có một cú sút cực mạnh và cực kỳ chính xác lên tuyến trên, không ai có thể ngờ được rằng những cú sút đầy vô hại đó lại là những đường chuyền vượt tuyến và luôn được Stoichkov hay Salinas tận dụng một cách triệt để rồi kết liễu đối thủ như là một nhát dao đau đớn nhất.

Tuy nhiên không chỉ có thế mà anh còn là người luôn luôn xông lên và biết cách ghi bàn trước mọi khung thành đối phương. Có thể nói ở Barcelona, Ronal Koeman đã trở thành huyền thoại. Chàng hậu vệ số 4 này không có tốc độ đeo bám, kỹ thuật cũng vào lại thường, hay chọn sai vị trí và đôi lúc có bất cẩn...nhưng khi nhắc tới lịch sử câu lạc bộ thì không ai là không nhắc tới anh, không ai có thể bỏ qua chàng hậu vệ tóc vàng này. Đơn giản anh là cầu thủ ghi bàn thắng duy nhất cho Barca trong trận chung kết cúp C1 trước Sampdoria và mang về chiếc cúp C1 đầu tiên cho CLB.

Ở Barcelona, vai trò của hậu vệ không được đánh giá cao, người ta không đánh giá phẩm chất phòng ngự của hậu vệ đó mà là xét tới khả năng hỗ trợ tấn công của hậu vệ đó. Thời nay tư duy đó bị phá sản ngay ở Barcelona thế nhưng vào thời kỳ của Ronal Koeman thì nó là một chân lý, bởi mỗi lần Barcelona ra quân thì họ luôn buộc trái bóng nằm trên sân của đối phương. Trong sự nghiệp thi đấu của mình tại Barca, Ronal Koeman mắc quá nhiều sai lầm nghiêm trọng, thế nhưng cũng bao lần anh mang lại cho Barca niềm hạnh phúc khôn tả. Tới Barca vào năm thứ 2 của kỷ nguyên " Đội hình trong mơ" cùng với Michael Laudrup, Ronal Koeman được biết tới như một chuyên gia sút phạt siêu hạng. Những cú sút của anh trông thật "mộc mạc" và "giản dị" nhưng đầy sức mạnh và hiệu quả. Cú sút phạt xé hàng rào của anh trong trận chung kết cúp C1 năm 1992 là một minh chứng hùng hồn nhất.

koeman2.jpg

Koeman và cú sút phạt đáng nhớ​

Ngoài sự ngiệp cầu thủ của anh khi còn ở Barca thì anh còn làm trợ lý cho huấn luyện viên Louis Van Gaal năm 1998. Roanl Koeman cũng là người đã khoác áo ở cả 3 câu lạc bộ lớn nhất Hà Lan đó là Ajax Amsterdam, Feyernoord và PSV. Bên cạnh Gulit, Van Basten, Frank Rjikaard... Ronal Koeman còn đoạt được chức vô địch EURO năm 1988. Hiện tại năm 2005 Ronal Koeman làm trợ lý cho huấn luyện viên Giovanni Trapattoli ở câu lạc bộ Benfica. Thật là đáng khâm phục với những gì mà Ronal Koeman đã đạt được. Chúng ta cùng chúc anh thành công hơn nữa.

Thông tin về Ronal Koeman:
Các tên: Ronald Koeman 'Sneeuwvlokje', 'Het Kanon'
Sinh ngày 21 tháng 3 năm 1963 tại Zaandam ở Hà Lan
Quốc tịch: Hà Lan
Vị trí thi đấu: Libero
Chiều cao: 1m81
Cân nặng: 82 kg
Sự nghiệp cầu thủ ở cấp độ đội tuyển quốc gia:
Thi đấu 78 trận đấu cho đội tuyển Hà Lan và ghi được 14 bàn, hiệu suất là 0,18 bàn/trận
Tham gia 2 vòng chung kết World Cup 1990 và 1994, tham gia 2 vòng chung kết EURO các năm 1988 và 1992. Thành tích là vô địch EURO năm 1988
Sự nghiệp cầu thủ ở cấp độ câu lạc bộ:
Các câu lạc bộ đã qua: FC Groningen( 1980-1983), Ajax( 1983-1986), PSV(1986-1989), Barcelona(1989-1995), Feyenoord(1995-1997)
Thi đấu 533 trận ghi được 193 bàn, hiệu suất là 0,36 bàn/trận
Thành tích: 2 cúp C1 năm 1987/1988, 1991/1992, 4 La Liga, Siêu cúp Châu Âu, siêu cúp TBN, Cúp quốc gia Hà Lan, vô địch quốc gia Hà Lan, cúp nhà vua TBN....
Tư cách là huấn luyện viên, trợ lý:
Trợ lý cho Louis Van Gaal năm 1998, trợ lý cho Giovanni Trapattoli ở Benfica năm 2005, HLV cho Vitesse, Ajax Amsterdam, Benfica, PSV Einhovein, ...

(MR)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
José Mari Bakero

bakero.jpg

Cùng với Ronald Koeman, Bakero là một trong những cầu thủ quan trọng nhất của El DreamTeam thập kỷ 90. Cổ động viên của Barcelona không thể quên bàn thắng vô giá của Bakero vào lưới Kaiserlautern và cú sút phạt kinh điển của Koeman trong trận chung kết.

Sinh tại: Goizueta (Navarra) - Spain
Ngày sinh: 11-02-1963​

Sự nghiệp cầu thủ:

-Real Sociedad (1980-1988)
-FC Barcelona (1988-1996)

Thành tích:

Cúp C1: 1992
Cúp C2 1989
Siêu cúp châu Âu: 1993
Vô địch TBN: 1991, 1992, 1993, 1994
Copa del Rey: 1987, 1990
Siêu cúp TBN: 1988, 1991, 1992, 1994, 1996

29 trận cho đội tuyển Tây Ban Nha Spanish với 7 bàn.

Những cống hiến hết mình của anh mang lại cho câu lạc bộ chiếc cúp C1 cao quý, đưa FC Barcelona gia nhập vào hàng ngũ các CLB hàng đầu của châu Âu.

Bakero sinh ngày 11-02-1963 tại Goizueta, TBN. Anh khởi đầu sự nghiệp tại Real Sociedad. Tại đây anh cùng Sociedad đoạt hai chức vô địch liên tiếp, khi đó trong đội hình Sociedad có Satrustegui, Zamora, Gajaye, Larranaga và Gorrix. Thành công của Bakero tại Sociedad đã thu hút sự chú ý của Barca và đến mùa giải 1988-1989, anh cùng Beguiristan và Luis Rekarte đầu quân cho Barcelona.

Bakero1.jpg

Dưới sự lãnh đạo của Johan vĩ đại, Bakero trở thành trụ cột của El DreamTeam và là thần tượng của các CĐV cả trong lẫn ngoài sân cỏ. Cùng với các đồng đội, anh tham gia cả ba trận chung kết trong thập kỷ 90, trận chung kết cúp C2 năm 1991( Barcelona - MU 1-2), chung kết cúp C1 1992( Barcelona - Samporia 1-0) và trận đấu lịch sử trên sân Athens (Barcelona - AC Milan 0-4).

Bakero rời Barcelona vào mùa giải 1996-1997, trong trận đấu cuối cùng anh tặng các CĐV một món quà chia tay tuyệt vời là bàn thắng vào lưới Valladolid. Anh kết thúc sự nghiệp tại CLB Azteca( Mexico).
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Pep Guardiola

guardiola2.jpg

Josep Guardiola Sala gia nhập Barcelona ngày 28 tháng 6 năm 1984 từ Gimnàstic de Manresa sau kết quả từ sự nỗ lực của Oriol Tort. Chàng cầu thủ có biệt danh 'the lad from Santpedor' đến với Barca từ khi còn là một cậu bé, và đã thi đấu cho tất cả các đội trẻ của Barca cho đến khi được đưa lên đội hình chính.

Nơi sinh: Santpedor ( Tây Ba Nha)
Ngày sinh: 18/01/1971.​

*Sự nghiệp cầu thủ:
FC Barcelona B (gia nhập ngày 28 tháng 6 năm 1984)
FC Barcelona (1991-2001 - 268 trận/ 6bàn thắng)
Brescia Calcio (2001-2002 )
A.S Roma ( 2002-..)

* Thành tích:
6 chức vô địch TBN ( các năm 1991,1992,1993,1994,1998,1999)
4 siêu cup TBN ( 1991,1992,1994,1996)
Vô địch Champions league năm 1992
2 siêu cúp châu Âu năm 1993,1998
2 cup nhà vua TBN năm 1997,1998
Cup C2 châu Âu năm 1997
Thi đấu 46 trận cho đội tuyển TBN, ghi 5 bàn thắng.

Johan Cruyff đã cho Guardiola cơ hội thử sức đầu tiên trong 1 trận đấu của Barca tại Liga trên sân Nou Camp vào ngày 16 tháng 12 năm 1990. Ở tuổi 20, anh là một trong những cầu thủ góp công lớn nhất trong việc làm nên Dream Team.

Guardiola chiếm 1 vị trí quan trọng nhất trong đội hình lúc đó, anh là thủ lĩnh khu vực giữa sân, là cầu nối giữa hàng phòng ngự và tuyến trên, là người lãnh đạo, người cầm nhịp cho đội bóng. Cùng với Dream Team, Guardiola đã làm mưa làm gió trên đấu trường châu Âu, bảng vàng thành tích của anh chẳng còn thiếu chiếc cúp danh giá nào.

guardiola_07.jpg

Guardiola luôn chơi bóng với 1 phong thái nhàn nhã​

Guardiola chơi giữa hàng phòng ngự và hàng tiền vệ, là cầu thủ phát động hầu như tất cả các đợt tấn công của Barca. Anh là người phân phối bóng, người điều khiển nhịp độ trận đấu. Cầm và giữ bóng, giữ vai trò quan trọng trong lối chơi của Barca, thậm chí điều khiển cả lối chơi của đồng đội. Có thể nói không ngoa rằng Guardiola chính là chìa khoá để cỗ máy Barcelona vận hành một cách hoàn hảo.

Guardiola.jpg

Guardiola - người thủ lĩnh của Barca​

Chàng tiền vệ đến từ Santpedor đã được nhận băng đội trưởng từ Bakero. Anh là cầu thủ được hâm mộ nhất trong đội hình Barca thời đó, tình yêu của anh với CLB đã chinh phục tất cả các cổ động viên, và anh từ lâu đã là một biểu tượng của Barca, cái bóng của anh bao trùm khắp cả sân Nou Camp, anh là một tấm gương để các cầu thủ tại La Masia noi theo.

Mùa giải 97-98 thực sự là một cơn ác mộng của Guardiola bởi chấn thương gân kheo, chấn thương này đã làm anh phải nghỉ thi đấu trong gần 1 năm, cầu thủ đội trưởng của Barca có những lúc thưởng chừng như phải chấm dứt sự nghiệp cầu thủ khi đang ở đỉnh cao phong độ. Nhưng sau cuộc phẫu thuật, cùng với 1 thời gian dài bình phục, anh đã lại có thể tiếp tục thi đấu. Nhưng vết chấn thương đó đã khiến Guardiola không thể tham dự WC 98 cùng với đội TBN, và TBN đã không thể vượt qua vòng 1, do thiếu vắng vị thủ lĩnh này. Sau một thời gian dài bình phục, anh đã trở lại và tiếp tục cùng với Barca chinh phục những đỉnh cao mới.

Từ khi đến với Barca, the 'lad from Santpedor' đã cùng CLB giành được 6 danh hiệu vô địch Liga, một lỷ lục mà cho đến bây giờ chỉ chịu thua Ramallets huyền thoại.

champions17.jpg

Guardiola ăn mừng chức VĐ cùng các đồng đội​

Trong danh sách những chiếc cúp mà người đội trưởng Dream Team đã giành được còn có cúp C1, C2.... một thành tích mà bất kỳ cầu thủ nào đều mong ước. Những thành tích đó đã đưa Guardiola trở thành một người hùng của sân Nou Camp, chắc chắn các CĐV sẽ còn nhắc nhiều đến tên anh, cái tên gắn liền với giai đoạn thành công nhất trong lịch sử CLB.

Dù rằng đã giành được mọi vinh quang với Barca, nhưng sự nghiệp của Guardiola tại đội tuyển TBN lại rất khiêm tốn, hầu như không có gì. Anh thi đấu 46 trận cho đội TBN và ghi được 5 bàn thắng.

Sau khi rời sân Nou Camp, Guardiola đã sang thi đấu tại Serie A trong màu áo của Brescia và A.S Roma.

Cuối mùa giải 2006 - 2007, sau khi Barca B bị rớt xuống hạng Tư, Guardiola đã được ban lãnh đạo câu lạc bộ mời làm HLV của Barca B bắt đầu từ mùa bóng 2007 - 2008. Chúng ta cùng hy vọng Guardiola sẽ đạt được những thành công khi bước vào sự nghiệp HLV và đào tạo cho Barca nhiều cầu thủ trẻ xuất sắc
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Hristo Stoichkov

Stoichkov6.jpg

Stoichkov, vẫn được gọi là "Itso", sinh ngày 8-2-1966 ở Plovdiv, Bulgaria. Theo lời kể của mẹ anh, Penka, thì Hristo được sinh ra "với một quả bóng giữa 2 chân ??!". Ban đầu chú bé Hristo chỉ được tập luyện ở đội bóng địa phương Maritsa mà nhiệm vụ chính là nhặt bóng nhưng rất nhanh, chú nhóc 10 tuổi đã thể hiện sự tiến bộ vượt bậc và được đá chính.

*Tên : Hristo Stoichkov (hoặc Hristo Stoitchkov).
*Số áo : 8.
*Sinh ngày 8-2-1966 .
*Các mùa bóng với Barca :
-1990-1991 :VĐQG, giành 'Heneralitat' Cup , ghi được 14 bàn, cùng Barca vào chung kết cúp C2 và là cầu thủ xuất sắc nhất trong năm của Bulgari.
-1991-1992 : Giành Champions League, VĐQG, Siêu cúp Tây Ban Nha, ghi 17 bàn, cầu thủ xuất sắc nhất Châu Âu - onze, Quả bóng bạc - Fifa, Quả bóng bạc - France Football, cầu thủ xuất sắc nhất năm của Bulgari.
-1992-1993 :VĐQG, siêu cúp Châu Âu, siêu cúp Tây Ban Nha , 'Heneralitat' Cup, ghi 20 bàn.
-1993-1994 :VĐQG, lần thứ 4 là cầu thủ xuất sắc nhất trong năm của Bulgari, qủa bóng bạc - Fifa, quả bóng vàng - France Football.
-1994-1995 : siêu cúp Tây Ban Nha.
-1996-1997 : siêu cúp Tây Ban Nha, cúp Nhà Vua và cúp C2
-1997-1998 : siêu cúp Châu Âu

Đến năm 1984, Hristo rời Maritsa để chơi cho đội bóng Hebar của Harmali, chỉ một năm chơi cho Hebar anh đã nổi bật như một thiên tài và được nhìn nhận là ngôi sao tương lai của bóng đá Bulgaria. Không lâu sau, năm 1985, Manol Manalov- một chuyên gia săn tìm tài năng trẻ của CSKA Sofia đã nhận thấy ở Hristo những phẩm chất đặc biệt và đã đưa anh về đội bóng. Ở đây, Hristo đã được gặp HLV Dimitar Penev và chính nhờ sự giúp đỡ của Penev mà tài năng của Hristo đã được đưa lên một tầm cao mới.

Về với CSKA, Stoichkov rất nhanh chóng trở thành nhân vật chính của đội bóng,ngay ở mùa bóng đầu tiên anh đã mang lại cho CSKA cú đúp ở giải vô địch quốc gia và cúp quốc gia Bulgaria. Đến năm 1989 là cú đúp thứ 2 đồng thời anh chiếm luôn 2 danh hiệu cá nhân dành cho cầu thủ xuất sắc nhất Bulgaria và Vua phá lưới với 23 bàn thắng. Cũng trong mùa giải đó anh đã dẫn dắt CSKA vào đến tứ kết cúp C2. Trong trận đấu đó CSKA đã thất bại trước Barcelona nhưng với màn trình diễn xuất sắc của mình Hristo đã gây ấn tượng mạnh với HLV của Barca, Johan Cruyff. Rất thích thú với tiền đạo thuân chân trái này, Cruyff đã lập tức ký với anh một bản hợp đồng kỷ lục của CLB khi đó là 4,5 triệu bảng.

Stoichkov9.jpg

Stoichkov trong màu áo Barca​

Từ năm 1990 đến 1994, Hristo liên tục ghi bàn cho Barca. Trong thời gian đó, anh là đầu tàu của một Barca " khủng khiếp" đã thống trị Primera Liga suốt 4 năm( 91-94) mà đỉnh cao là năm 1992, khi Barca đánh bại Sampdoria ở trận chung kết Champions League.

champions10.jpg

Stoichkov và chiếc cúp lịch sử​

Stoichkov đã trở thành anh hùng trong con mắt của các cổ động viên của đội bóng, kết hợp với Romario ở tuyến trên, khi đó hàng công của Barca là không thể ngăn chặn và là nỗi kinh hoàng với bất kỳ hàng thủ nào.

Stoichkov13.jpg

Có thể nói rằng thời gian thi đấu ở Barca chính là thời kỳ đỉnh cao của Stoichkov. Cùng với những thành công tại Barca, anh cũng đã đưa ĐT Bulgaria tới tận tứ kết WC 94 với 6 bàn thắng (đồng Vua phá lưới WC 94).

Năm 1995, Stoichkov rời Barca sang thi đấu cho Parma với bản hợp đồng trị giá 15 triệu bảng. Nhưng 2 năm sau, anh trở lại Barca và cùng Barca giành một loạt danh hiệu như cúp C2, cúp Nhà vua, siêu cúp Tây Ban Nha. Cùng năm đó, anh chuyển sang thi đấu cho Al-Nasr của Arab-Saudi.

Trong sự ngiệp cầu thủ lẫy lừng của mình, Stoichkov đã 5 lần được bầu chọn là cầu thủ hay nhất Bulgaria, 2 lần giành được chiếc giày vàng, là cầu thủ xuất sắc nhất Châu Âu năm 1994, Onze vàng năm 1992.

Stoichkov12.jpg

Stoichkov - người đã đi vào lịch sử Barca​

Với Barca thì Stoichkov đã hầu như dành đựoc tất cả nhưng danh hiệu: chiến thắng ở Champions League, cúp C2, siêu cúp Châu Âu, VĐQG, cúp Nhà vua, Siêu cúp TBN, ...với 119 bàn thắng trong 255 trận đấu.

(Nestavaro)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
''Phù thủy'' Rivaldo

Rivaldo3.jpg

Việc Ronaldo bất ngờ đến với Inter Milan tuy để lại nhiều tiếc nuối nhưng các CĐV Barca cũng chẳng buồn lâu khi mà họ đã có Rivaldo. Với cái chân trái siêu hạng, Rivaldo có thể làm mọi điều anh muốn, từ đi bóng, chuyền bóng cho đến ghi bàn thắng.

Vài nét về Rivaldo :

Tên khai sinh: Vitor Borbosa Ferreira
Sinh ngày 19/4/1972 tại Recife (Brazil).

Các CLB: Paulista (Brazil) 1989/92, Santa Cruz (Brazil) 1992/93, Mogi-Mirim (Brazil) 1993/94, Corinthians (Brazil) 1993/94, Palmeiras (Brazil) 1994/96, Deportivo 96-97, Barcelona 1997-02.

Danh hiệu : vô địch Brazil 1994 với Palmeiras (Brazil). Vô địch thế giới 2002.

Cùng với Barcelona đoạt 2 Liga 97/98 và 98/99, siêu cúp châu âu 1997/98

Danh hiệu quả bóng vàng do FIFA và tạp chí World Soccer trao tặng 1999, danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu do France Football trao tặng

Rivaldo bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp từ năm 1989, khi anh mới 16 tuổi trong màu áo Santa Cruz. Sau đó, anh tiếp tục chuyển sang chơi cho các đội bóng khác ở Braxin như Mogi-Mirim, Corinthians, và Palmeiras trước khi sang Tây Ban Nha gia nhập Deportivo La Coruna. Rivaldo cũng đã có trận ra mắt đầu tiên trên đấu trường quốc tế trong màu áo tuyển Braxin năm 1993 trong trận giao hữu gặp Mexico. Và ngay trong trận ra mắt này, anh đã ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu, mang về thắng lợi 1-0 cho Braxin.

Rivaldo1.jpg

Rivaldo trong màu áo Barca​

Đến Barca năm 1999, sau một mùa giải khá thành công ở Deportivo. Ở Barca, anh chơi bên cánh trái thay vì vị trí tự do như khi thi đấu ở La Coruna, và ở vị trí này anh đã làm mê đắm hàng vạn khán giả sân Nou Camp. Trên sân, Rivaldo thực sự là nhạc trưởng, anh đã truyền cảm hứng cho các cầu thủ Barca và cùng với Figo anh đã biến Barca thành đội bóng có lối chơi hấp dẫn nhất Châu Âu vào thời điểm đó. Kỹ thuật và luôn luôn bùng nổ, anh có thể gây nên những sự ngạc nhiên vượt xa trí tưởng tượng của mọi người.

rivaldo3.jpg

Người ta vẫn nhắc về những trận đấu của Rivaldo khi anh một mình đem chiếc vé đi dự Champions League về cho Barcelona trong vòng đấu cuối cùng của Liga 00/01 (Rivaldo ghi hattrick, giúp Barca thắng Valencia 3-2), về 2 trận hòa 3-3 trước đối thủ M.U (25/11/1998) và AC Milan (18/10/2000). Năm 1999, với 24 bàn thắng tại Liga, Rivaldo đã giúp Barca đăng quang tại Primera Liga, lọt vào bán kết Champions League trong mùa giải kỷ niệm lễ bách niên (1899-1999). Nhắc đến Rivaldo là ta nhắc đến cầu thủ có khả năng sút phạt tốt nhất thế giới. Anh có thể sút không cần lấy đà nhưng lại khiến trái bóng đi theo những đường cong bí hiểm ,có thể đánh gục cả những thủ thành đáng tin cậy nhất.

rivaldo12.jpg

Rivaldo với chiếc chân trái kỳ diệu​


(Nestavaro )
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Romario - chú ''quỷ lùn'' đáng yêu

legende-romario.jpg


Sinh tại : Jio de janeiro ( Brasil)
Ngày sinh: 29-01-1966
Sự nghiệp cầu thủ:
Vasco da Gama (1980-1988)
PSV Eindhoven (1988-1993 - 109 trận / 98 bàn thắng)
FC Barcelona (1993-1995 - 46 trận / 34 bàn thắng)
Flamengo Rio de Janeiro (1995-1996 - 59 trận/ 60 bàn thắng)
CF Valencia (1996 - 5 / 4)
Flamengo Rio de Janeiro (1997-1999)
Vasco da Gama (2000 - 2007)
Thành tích:
3 chức vô địch Hà Lan các năm 1989, 1991, 1992
2 Cúp quốc gia Hà Lan ( Dutch Cup) 1989, 1990
Vô địch quốc gia TBN năm 1994.
Copa America 1989, 1997
Vô địch World Cup 1994
Các danh hiệu:
Dutch League Top Scorer 1989, 1991
Spanish League Top Scorer 1994
FIFA World Player of the Year 1994​

FC Barcelona: 1993-1995 - thi đấu 46 trận ghi 34 bàn thắng

Tên đầy đủ của anh là Romario de Sauze. Anh sinh ngày 29-1-1966 trong một gia đình ngèo. Ngay từ bé anh đã sớm bộc lộ tài năng bóng đá thiên bẩm cảu mình. Năm 1979, Vasco Da Gama phát hiện ra anh, đưa về đào tạo nhưng họ cũng sớm loại anh vì cho rằng anh quá bé nhỏ. Anh chuyển đến chơi cho 1 câu lạc bộ nhỏ mang tên Olario. Những gì anh thể hiện ở đây khiến cho mọi người sững sờ. Vasco nhận ra rằng họ vừa đánh mất 1 viên ngọc quý, và họ tìm mọi cách để đưa anh trở lại. Romario bắt đầu có đất để thể hiện mình. Anh trở thành 1 tiền đạo nổi tiếng thế giới. Anh không có thể hình tốt, không có những cú sút kẻ chỉ, cũng chẳng có tốc độ kinh hoàng, nhưng bù lại anh có 1 đôi chân ma thuật, 1 sự nhạy cảm trong ghi bàn và kỹ thuật chạy chỗ thật tuyệt vời. Anh là vua trong phạm vi hẹp !!!!Chỉ cần chừng đấy là anh đã đủ để có mặt trong The Hall of Fame, với tư cách là 1 trong những tiền đạo xuất sắc nhất của lịch sử bóng đá.

Sau thời gian tích luỹ các Cup, các danh hiệu vua phá lưới tại Vasco da Gama, Eindhoven, anh được tượng đài Johan Cruyft vời về sân Nou Camp. Và anh đã chứng mình rằng quyết định của Thánh Johan là hoàn toàn sáng suốt. Người dân Catalan như phát cuồng vì đã tìm được 1 thần tương mới. Anh là nguồn cảm hứng cho đồng đội, đã ghi hàng loạt bàn thắng cho đội bóng Barca . Anh cùng với Koeman, Stoichkov, Laudrup, Zubirazetta, Nadal, ... hợp thành đội hình Dream Team gây kinh hoàng cho toàn Châu Âu. Anh đã cùng Barca dành chức vô địch Liga lần thứ 4 liên tiếp. Anh cũng đã dành danh hiệu vua phá lưới năm 94. Tại Barca, anh mới đạt đỉnh cao phong độ của mình, anh trở thành tiền đạo xuất sắc nhất thế giới lúc bấy giờ. Cũng năm đó, Barca lọt vào chung kết với " kẻ xâm lăng" đến từ Milan của HLV Capello. Đó là kỷ niêm buồn với Romario. Barca đã thất thủ với tỉ số 0-4. Romario mờ nhạt. Cả cỗ máy thiếu mất đầu tàu cũng gần như ngừng hoạt động. Người ta đã trách Romario rất nhiều. Nhưng không nhiều người biết rằng: trước trận đấu cha của Romario đã bị bắt cóc. Những kẻ bắt cóc không đòi tiền chuộc mà chỉ cần xem Romario "thể hiện" trong trận chung kết để quyết định số phận của cha anh...
Khép lại mùa bóng đó, Romario lại thi đấu nổi bật tại USA 94. Anh dành danh hiệu Quả bóng vàng một cách rất xứng đáng cùng với chức vô địch cho đội bóng của xứ sở Samba. Ngay sau khi trở về từ Mỹ- anh mới biết mình đã bị bán cho Flamengo để kiếm lời- đó cũng là cái cách mà sau này Ronaldo rồi Figo ra đi... Tuy nhiên anh vẫn nói: " Tôi yêu thành phố Barcelona. Những ngày tháng tại đây thật tuyệt vời đối với tôi"...

Năm 2000 tất cả các fan hâm mộ của Romario và Barca đều trông đợi một sự trở lại; khi Romario đã mở lời: "Chỉ có Barca trong trái tim tôi - và câu lạc bộ duy nhất có thể đưa tôi về với Châu Âu là Barca." Tuy nhiên mọi mong ước đã không xảy ra... Romario đã không chuyển đến barca. Có lẽ ban huấn luyện Barca cho rằng anh đã qua thời kỳ đỉnh cao phong độ - Sau này chính ông Gaspart thú nhận: Tôi đã quên một điều rằng- Romario là một cầu thủ không có tuổi..Với những gì đã làm anh xứng đáng một chỗ trong phòng truyền thống của Barca cùng với các tiền bối Kubala, Crufft,....

Romario cũng đã đi vào lịch sử bóng đá thế giới khi có được bàn thắng thứ 1000 cho riêng mình - Một thành tích rất khó xảy ra trong bóng đá hiện đại ngày nay.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Luis Enrique, người chiến binh quả cảm

enrique1.jpg

Luis Enrique Martinez gia nhập FC Barcelona vào mùa hè năm 1996, sau khi hết hạn hợp đồng với Real Madrid, đội bóng mà anh đã chơi trong 5 mùa bóng.

"The Austurian" đến Nou Camp từ kẻ thù truyền kiếp của Barca và đó là nguyên nhân đầu tiên của sự nghi nhờ từ một số ngưòi nào đó trong số các cổ động viên. Tuy nhiên,anh đã nhanh chóng thích nghi với CLB, trở thành một trong những cầu thủ chủ chốt của Barca.

luis5.jpg

Tính linh hoạt là điểm chủ yếu về thể lực của anh và có lẽ chính đặc điểm này đã vạch rõ lối chơi của Luis Enrique. Anh hạnh phúc nhất khi được chơi ở vị trí tiền đạo trung tâm, mặc dù thông thường anh chơi sát cạnh tiền đạo chính của đội bóng.Chăm chỉ, bền bỉ, chơi hết mình, tính khí thất thường và là một tiền đạo ghi bàn tốc độ, anh chưa bao giờ bỏ cuộc, ngay cả khi những miếng ngáng chân làm anh ngã.

Luis Enrique bắt đầu chơi bóng ở Ensitosa. Thành tích tốt của anh với câu lạc bộ đã bị bỏ qua bởi HLV Asturian và đội bóng hạng nhất Oviedo, sau đó là tình yêu với Sporting Gijon. Cuối cùng anh đã chọn con đường đến Gijon.

Sự nghiệp của anh ở Sporting như sao băng. Anh đá trận ra mắt ở hạng nhất mùa giải năm 1989_1990 khi mới 19 tuổi và chỉ ít hơn 1 năm,anh đã trở thành phát hiện lớn của giải với 15 bàn thắng. Điều đó đã gợi sự thích thú từ Johan Cruff của Barca và Real Madrid, đội bóng cuối cùng đã ký hợp đồng với anh với giá 250 triệu peseta.

Trong 5 mùa giải khoác áo CLB thành Madrid, cầu thủ trẻ đến từ Gijon luôn được ca ngợi là tương lai của Madrid, là người kế cận xứng đáng cho Hugo Sanchez hay Ivan Zamorano. 21 tuổi, Enrique đã xuất hiện trong ĐTQG. Nhưng tại Madrid, sự nghiệp của anh ngày càng có dấu hiệu đi xuống. Không hài lòng với cá tính mạnh mẽ đặc trưng của một thanh niên xứ Gijon, Lorenzo Sanz, Chủ tịch của Real Madrid, và Jorge Valdano, người mới trở lại nắm quyền tại CLB, đầy ải Enrique trên băng ghế dự bị.

Không muốn chết dần chết mòn, Enrique ra đi, và anh đã quyết định thi đấu cho Barcelona, đội bóng đã tạo ra những cơ hội thích hợp và đặt niềm tin vào anh. Với Barca, Luis Enrique tìm thấy niềm vui chơi bóng. Trên sân cỏ, anh luôn là mẫu cầu thủ thi đấu xả thân vì đội bóng. Lối chơi máu lửa, hết mình của anh truyền cảm hứng cho đồng đội. Luis Enrique dần đạt đến đỉnh cao và trở thành cầu thủ Tây Ban Nha xuất sắc nhất vào thời điểm đó.

Luis2.jpg

"Chiến binh" Luis Enrique​

Nhưng ấn tượng lớn nhất về Luis Enrique chính là những trận Superclasico.
Như để buộc người Madrid ân hận vì quyết định của mình, Enrique luôn tỏa sáng trong những trận cầu kinh điển. Đến mức mà sau trận clasico mùa bóng 98/99 trên sân Nou Camp (Luis Enrique ghi 2 bàn trong chiến thắng 3-0), Lorenzo Sanz đã phải cay đắng thừa nhận: ''Để Enrique sang Barcelona là một trong những sai lầm lớn nhất trong đời tôi''.

Cùng với Barcelona, Enrique đã vươn tới nhiều danh hiệu cao quí trong sự nghiệp cầu thủ. Đầu tiên là dưới thời Bobby Robson, anh đã có Cup Nhà vua và Cup C2, sau đó với Luis Van Gaal là 2 lần VĐQG, 1 siêu cup Châu Âu và 1 cup Nhà vua. Luis Enrique cũng thành công với HCV Olympic tại TVH Barcelona 1992.

Luis Enrique đã ở lại và cống hiến cho Barcelona đến những ngày cuối cùng của sự nghiệp. Anh giải nghệ năm 2003, sau một thời gian liên tục gặp chấn thương. Hình ảnh một Luis Enrique dũng mãnh, người đội trưởng tận tuỵ sẽ còn được nhớ mãi trong sự luyến tiếc của các Barcamania.

Enrique2.jpg

Luis Enrique trong trận đấu cuối cùng tại Noucamp

Thông tin cầu thủ:
Tên: Luis Enrique Martinez
Sinh : 8/5/ 1970
Cao: 180 cm
Cân nặng: 73 kg
Vị trí : tiền vệ
Chơi cho FC Barcelona từ 1996-2003​

Thành tích:
Dưới màu áo FC Barcelona:
- Liga 1998,1999
- Siêu cúp châu Âu 1998
- Siêu cúp TBN 1997

Dưới màu áo Real Madrid:
- Liga 1995
- Siêu cúp TBN 1993

(kass1327)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Ladislao Kubala Stecz

kubala2.jpg

Kubala sinh ngày 10/6/1927 tại Budapest trong một gia đình gốc Slovac và BaLan.

Ông bắt đầu sự nghiệp bóng đá với tư cách là cầu thủ trẻ nhất của CLB Ganz. Một năm sau, sau cái chết của người cha, ông và mẹ rời Hungary đến Bratislava (bây giờ thuộc Slovakia), gia nhập đội bóng thành phố, được huấn luyện bởi bố vợ tương lai của ông và là HLV của Barca: Fernando Paucik.

Năm 1947,ông quay về Tổ quốc và ký hợp đồng với Vasas Budapest, nhưng chỉ 1 năm sau ông rời bỏ sự nghèo nàn, gian khổ của Hungary thời hậu chiến và dừng lại trong 1 trại tỵ nạn quân đội ở Rome. Ông từ chối số tiền lớn chuyển từ Torino để ký hợp đồng với Pro Pátria_cho người mà ông đã chơi trong sự thân thiết mùa bóng 1948_49. Thật không may, FIFA trước sự xúi giục của LĐBĐ Hungary, chính thức cấm ông thi đấu dài ngày, do vậy ông cùng với một số người tị nạn Đông Âu khác lập một đội bóng, có những chuyến du đấu đến Tây Âu.

Trong một chuyến đi như vậy, sau khi đá ở Sarria, Giám đốc kỹ thuật hồi đó của Barca, Josep Samitier đã bị Kubala gây ấn tượng sâu sắc đến nỗi ông quyết định làm mọi việc có thể để ký hợp đồng với Kubala. Ngày 15/6 ông đã thực hiện được ước nguyện. Kubala gia nhập FC Barcelona mặc dù ông không thể xuất hiện ngay cho đến tháng 4/1951, nhờ có một thành viên chống lại luật, người sợ ông có thể trở thành cầu thủ của ĐTQG TBN.
Sự có mặt của Kubala tại CLB đã đóng góp cho sự thành công của Barcelona. Kubala có thể lực tốt, kỹ thuật cao với những cú sút lão luyện, người thực hiện penalty, người có khả năng đọc trận đấu thông minh cũng như một nhà lãnh đạo bẩm sinh.

Barca đã thất bại trong việc cố gắng ký hợp đồng với Di Stefano năm 1953, điều đó có nghĩa là các fan đã không có dịp nhìn thấy hai ngôi sao lớn của thế giới chơi cùng nhau. Sau đó là thời kỳ khó khăn từ 1953 đến năm 1958. Kubala lại nhận ra tình trạng sức khoẻ tốt nhất của mình dưới sự chỉ đạo của Helenia Herrara vào những năm cuối thập kỷ 50. Ông từ giã CLB vào năm 1961, sau khi chơi 329 trận, ghi 156 bàn thắng cho CLB, Kubala có thể kiêu hãnh về những danh hiệu vô địch
QG(51_52, 52_53, 58_59 và 59_60), 1 Copa Llatina(1952), 2 Fair Cup(55_58, 58_60), 5 Cup QG TBN(50_51, 51_52, 52_53, 56_57 và 57_58), 2 Eva Duarte Cup(1952 và 1953). Ông cũng dành được những vinh dự quốc tế với 4 đội tuyển khác nhau: Slovakia, Hunggary, Tiệp Khắc và 19 lần khoác áo ĐT TBN.

Sau khi nghỉ hưu, ông huấn luyện Barca cho đến khi bị sa thải năm 1963, trên cả việc Di Stefano gia nhập Espagnol một cách ồn ào mùa giải 1963_1964 với tư cách là cầu thủ kiêm HLV. Ông bắt đầu làm công việc HLV một thời gian dài ở Elbe, Murcia, Zurich, Cordoba, Toronto Falcan và Toronto City, cũng như hai lần huấn luyện đội tuyển các ngôi sao châu Âu.

Ông cũng làm HLV đội tuyển TBN từ 1969_1980, khi ông lại tiếp tục làm ở bộ phận kỹ thuật của Barca, chỉ đến khi một lần nữa bị sa thải vào tháng 11. Sau khi tiếp quản Al_ Hila của Saudi Arabia,ông quay lại TBN huấn luyện Malaga những năm 1987_1988.Ông rời Malaga để làm chủ tịch của các cựu cầu thủ Barca sau khi làm HLV cho Paraguay một thời gian ngắn. Năm 1993, ông nhận được một quà tặng xúc động, một trận đấu lặp lại trận đấu năm 1963 với Di Stefano và Puskas là khách mời, đánh bại Stade Reims 4_2 trên SVĐ Nou Camp chật cứng khán giả.

Cho đến khi từ giã cõi đời ông giữ vị trí chủ tịch danh dự các cựu cầu thủ của Fc Barcelona
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Johan Neeskens

080606_neeskens_dif.jpg

Sinh:15/9/1951Amsterdam(Hà lan)​

Sự nghiệp cầu thủ:

-RHC(1968-1970)
-Ajax Amsterdam(1970-1974)
-FC Barcelona(1974-1979)
-Cosmos New York (1979-1984)
-Groningen (1984-85)
-Fort Lauderdale Sun (1986)
-Löwenbrau (1986/87)

Thành tích :

Holland Championship 1972, 1973
Holland Cup Winner 1971, 1972
European Championship 1971, 1972, 1973
World Championship of Clubs 1972
European Supercup 1972, 1973
Spanish Cupwinner 1978
European Cupwinner-Cup 1979
North American Soccer League Championship 1980
1974 and 1978 Vice-World-Champion

51 trận cho đội tuyển Hà Lan với 17 bàn thắng

Sự nghiệp HLV:

-FC Baar (1987-1990 - playing manager)
-FC Zug (1990 - 1993)
-FC Stäfa (1993-1995)
-FC Singen (1995/96)
-Holland (1997-2000 - Co-manager and youth)
-NEC (2000- ?)
- Trợ lý HLV tại đội tuyển Úc (2004 - 2006)
Trọ lý HLV tại Barca (2006 - nay)

Ông sinh ngày 15/09/1951 tại Heestede, Hà Lan. Khi còn nhỏ, Neeskens hâm mộ bóng bầu dục nhưng về sau ông quyết định đầu quân cho CLB bóng đá RCH Heedale cho đến khi về với Ajax năm 19 tuổi. Tại đây, cùng với HLV huyền thoại Rinus Michel và Johan vĩ đại, ông đọat 3 cúp C1, hai chức vô đich Hà Lan, một cup QG. Tại đội tuyển Hà Lan, Neesken đã thi đấu 48 trận, giành ngôi á quân World Cup 1974, 1978. Neeskens cùng với Cruyff gia nhập BARCA ngày 20/06/1974. Trong 4 mùa bóng tại BARCA, ông tham gia thi đấu 219 trận, ghi 53 bàn thắng. Trận chung kết cup C2 tại Basel (Thụy sỹ) cũng là trận đấu cuối cùng của Neeskens tại BARCA, lúc này CLB vừa ký hợp đồng với danh thủ người Đan Mạch Allan Simonsen. Sau khi rời BARCA ông sang Mỹ thi đấu cho New York Cosmos lúc này đang thu hút rất nhiều danh thủ bóng đá thế giới như Cruyff, Pele, Beckenbauer...

Các BARCAmania ngưỡng mộ Neeskens trên cả tư cách cầu thủ lẫn một người đàn ông. Sự có mặt của ông gây ôn ào một thời gian nhưng ông đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của người hâm mộ, thay thế vị trí của cầu thủ nổi tiếng Hogo 'Cholo' Sotil.

Neeskens là một tiền vệ trung tâm không thể thiếu với một tinh thần tuyệt vời hy sinh vì đội bóng, không bao giờ dừng chiến đấu để đạt được mục tiêu. Kĩ năng của ông khiến ông có thể chơi thuyết phục ở cả vai trò tấn công lẫn phòng thủ. Điều này chứng tỏ ông là một tiền vệ lí tưởng. Và ông trở thành người chỉ huy dẵn dắt đội trong những thời điểm khó khăn nhất. Kĩ thuật kiểm soát bóng bằng cả hai chân như nhau, ông đặc biệt nguy hiểm với những cú sút. Quả penalty do ông thực hiện nổi tiếng là không thể ngăn chặn. Ông đặc biệt mạnh mẽ trong những pha đấu tay đôi, không chiến. Trong suốt thời gian ở Barca từ 1974-1978, ông đã chơi tổng cộng 219 trận ghi được 53 bàn thắng.

Hiện nay, ông tiếp tục cống hiến cho Barca trên cương vị trợ lý HLV cho Rijkaard.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Salinas, tiền đạo Dream Team 1 thời

j-salinas154.gif

Tên đầy đủ của cựu tiền đạo Barca là Julio Salinas Fernández. Sinh ngày 11-9-1962 ở Vizcaya (Bilbao). Anh trai của Salinas là Patxi Salinas Fernández cũng là 1 cầu thủ chuyên nghiệp từng chơi cho Athletic Bilbao, Celta Vigo và đội tuyển Tây Ban Nha. Chính vì vậy không có gì khó hiểu khi Salinas sớm gia nhập đội ngũ cầu thủ chuyên nghiệp. Tổng cộng Salinas đã chơi cho 6 câu lạc bộ ở Liga. Với 17 năm thi đấu đỉnh cao anh đã chơi 417 trận đấu và ghi được 152 bàn thắng.

Sở hữu được sát thủ trong đội hình, A.Bilbao đã có những chiến thắng ngây ngất ở các mặt trận. Điển hình là cú đúp năm 1984 với chiếc Cúp Nhà Vua và La Liga. Cũng trong năm đó, Salinas đã có danh hiệu Pichichi. Thế nhưng đối với Salinas thì quãng thời gian đáng nhớ nhất trong sự nghiệp cầu thủ là trong màu áo Barcelona. Những năm tháng trên sân Noucamp đã thực sự làm Salinas thăng hoa trong sự nghiệp.

Đó là khi Johan Cruyff tìm bến đỗ trên sân Noucamp ở cuối mùa giải 1987/1988. Và chiến dịch bàn tay sắt của huấn luyện viên người Hà Lan này đã diễn ra 1 cách triệt để. Các ngôi sao cũ như Linker cũng phải cuốn gói ra đi. Salinas đã nằm trong danh sách chuyển nhượng. Cùng với thế hệ của Txiki Beguiristain, Bakero..chuyển tới từ Real Sociedad. Ban lãnh đạo Barca đã lôi kéo được tiền đạo này về sau khi phục vụ 2 mùa giải cho A.Madrid. Với bộ khung tuyệt vời, Johan Cruyff đã cùng Dream Team giải tỏa được cơn khát danh hiệu cho Barca. Tiêu biểu ở đây là chiếc cúp Champions League đầu tiên trong lịch sử, chiếc cúp C2 và đánh bại Real Madrid trong trận chung kết Cúp Nhà Vua năm 1990.

Cũng giống như thế hệ của Txiki Beguiristain thì Salinas phải cuốn gói rời khỏi Noucamp năm 1995 khi mà Dream Team bắt đầu suy tàn. Và đích đến lại là Deportivo La Coruna giống như Txiki, ngoài ra Salinas còn thi đấu cho Sporting Gijon từ năm 1995 đến năm 1997 và Yokohama F.Marinos (1997-1998) tuy nhiên lần xuất ngoại đó không đem lại cho tiền đạo xứ Basques này thành công và anh đã hồi hương trong màu áo của Deportivo Alaves từ năm 1998 đến hết mùa bóng 1999/2000 rồi từ giã sự nghiệp sân cỏ

Trong màu áo đội tuyển quốc gia thì Salionas cũng có tới 22 bàn thắng trong 56 lần ra sân thi đấu. Quãng 10 năm khoác áo đội tuyển xứ đấu bò từ năm 1986 tới năm 1996, Salinas đã có mặt ở 3 kỳ World Cup là 1986, 1990 và 1994. Và tham dự 2 kỳ EURO vào các năm 1988 và 1996. Đối với Salinas thì kỷ niệm trong trận tứ kết World Cup 1994 với Italia thật đáng quên, chỉ với một sai lầm của anh đã không thể đưa đội tuyển Tây Ban Nha đi sâu hơn nữa.

Các danh hiệu

Athletic Bilbao
2 Spanish Champions : 1982-83, 1983-84

FC Barcelona
1 UEFA Champions League : 1991-92
2 European Super Cup : 1992
1 European Cup Winners Cup : 1989
4 Spanish Champions : 1990-91, 1991-92, 1992-93, 1993-94
1 Copa del Rey : 1989-90

1982-84 : Bilbao Athletic : 68 trận (13 bàn)
1982-86 : Athletic Bilbao : 75 (31)
1986-88 : Atlético Madrid : 24 (12)
1988-94 : FC Barcelona : 54 (24)
1994-95 : Deportivo de La Coruña : 22(4)
1995-97 : Sporting Gijón : 50 (12)
1997-98 : Yokohama F. Marinos
1998-2000 : Deportivo Alavés

(Theo Blog của Minhrau)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Zubizarreta, hung thần của các tiền đạo

legende-Zubizarreta.jpg


Kể từ khi Zubizarreta ra đi khỏi thánh địa Noucamp, đội bóng xứ Catalan chưa thể tìm được 1 người hùng nào thực sự trấn giữ trong khung thành. Cho dù là Victor Baia, Busquets hay Hesp cũng chưa đủ tầm khỏa lấp khỏi chỗ trống quá lớn mà Zubizarreta để lại. Các thủ môn sau đó như Bonano, Rustu hay bây giờ là Victor Valdes chỉ càng làm cho các Culé nhớ tới anh nhiều hơn-người trấn giữ khung thành số 1 của Barcelona trong suốt 2 thập kỷ vừa qua. Bởi đơn giản anh chính là biểu tượng của sân Noucamp thời bấy giờ, biểu tượng cho sự an toàn và chắc chắn, là chỗ dựa, niềm tin vững chắc cho đồng đội mỗi khi thi đấu.


zubiraneta.jpg
Thời điểm mà Zubizarreta chơi cho Barca cũng chính là thời điểm hoàng kim nhất của câu lạc bộ. Mỗi pha ra vào, lên xuống của anh rất nhịp nhàng. Đôi lúc có những pha cứu nguy xuất thần mà tưởng như bóng đã mười mươi vào lưới. Zubizarreta đã đóng góp công sức không nhỏ trong cuộc chinh phục chiếc cúp vô địch Champions League mùa bóng 1991/1992. Với phong độ xuất sắc của mình, Zubizarreta đã không ít lần làm nản lòng các chân sút của Kaiserslautern, Benfica hay Dinamo Kiev để giúp Barca tiến đến trận đấu cuối cùng. Và cũng chính nhờ phong độ chói sáng đó đã không cho Vialli, Mancini hay Ivano Bonetti của Sampdoria 1 cơ hội cụ thể hóa thành bàn thắng. Đêm Wembley đó các cầu thủ Barca đã đăng quang và Zubizarreta đã trở thành tượng đài thực sự của sân Noucamp.

Zubizarreta sinh ngày 23-10-1961 tại Vitoria-Gasteiz (Araba), nhưng ông chủ yếu sinh sống ở Aretxabaleta (Gipuzkoa). Và cũng chính từ nơi đây đã bắt đầu xuất hiện 1 "gã" thủ môn nổi tiếng của Tây Ban Nha. Được lọt vào đội hình chính thức để đứng trong khung thành của Aretxabaleta (UDA) trong 3 năm từ 1977 đến 1979 là bước đệm tuyệt đẹp cho sự nghiệp thi đấu của ông. Deportivo Alavés đã lôi kéo bằng được ông về thi đấu cho câu lạc bộ trong mùa giải 1979-1980 sau đó.Tuy nhiên Zubizarreta đã phải nhẫn nại ngồi trên băng ghế dự bị suốt cả mùa bóng. Không thể để phí phạm tài năng của anh, các câu lạc bộ khác đã tranh nhau nhảy vào cuộc. Ath.Bilbao và Real Sociedad là 2 đội tranh giành nhau nhiều nhất. Nhưng Ath.Bilbao đã nhanh hơn John Toshack của Real Socidad khi thu nạp được Zubizarreta trong mùa hè năm 1980. Thời điểm đó tưởng chừng Zubizarreta đã có thể sát cánh cùng với Roberto López Ufarte, José Mari Bakero, López-Rekarte và Beguiristain thế nhưng cuối cùng Bilbao mới là đội chiến thắng trong cuộc cạnh tranh anh chàng thủ môn trẻ tuổi này. Và thật may mắn cho Bilbao khi trên hàng công có Salinas bùng nổ và đứng trên khung thành là Zubizarreta chơi xuất sắc. Cụ thể là chiến thắng lớn nhất đầu tiên trong sự nghiệp cho anh là chức vô địch Liga và chiếc Cúp Nhà Vua vào năm 1984. Dường như cảm thấy tài năng của Zubizarreta ngày càng tỏa sáng. Ban lãnh đạo của Barca đã tìm mọi cách để đưa Zubizarreta về sân Noucamp thế chỗ cho thủ môn Urruti đang kém phong độ. Quãng thời gian 8 năm (1986-1994) ở câu lạc bộ xứ Catalan đã đem lại nhiều vinh quang cho Zubizarreta cụ thể trong đó là 4 chiếc cúp Liga và 1 Champions League. Khi nội bộ Barca bắt đầu bị giải tán thì cũng là lúc Zubizarreta ra đi, anh chuyển đến Valencia thi đấu cho tới năm 1998 thì từ giã sự nghiệp thi đấu. Kể từ đó đến nay, Barca vẫn miệt mài tìm kiếm 1 người xứng đáng với những gì mà anh đã để lại

Zubizarreta đã chơi tổng cộng 622 trận đấu ở Liga và đó cũng là một kỷ lục đáng nể. Trong sự nghiệp thi đấu của mình Zubizarreta cũng đã có vinh dự khi được khoác áo đội tuyển quốc gia tham gia các giải đấu lớn như World Cup 1986, 1990, 1994, 1998 và các kỳ Euro 1988, 1996. Trận đấu đầu tiên mà anh có vinh dự góp mặt là trận đấu với Finland vào ngày 23-1-1985, đó cũng là trận đấu đáng nhớ khi Tây Ban Nha đã vượt qua Finland với tỷ số 3-1. Chiếc băng đội trưởng của anh đã chứng minh được phần nào tầm ảnh hưởng của anh chàng thủ môn tài năng này, một trong những thủ môn tài năng nhất trong lịch sử bóng đá Tây Ban Nha

Bây giờ sau 3 năm làm giám đốc thể thao của Athletic Bilbao, Zubizarreta đã chuyển sang làm bình luận viên đài phát thanh và đài truyền hình mỗi khi La Liga sôi động diễn ra.

Một vài thông tin về Zubizarreta

Tên đầy đủ : Andoni Zubizarreta Urreta
Ngày sinh : 23-10-1961
Nơi sinh : Vitoria-Gasteiz, Spain
Chiều cao : 1m87
Vị trí : Thủ môn
Các câu lạc bộ đã qua :
1- Deportivo Alavés (1979-1980)
2- Athletic Bilbao (1980-1983), chơi 169 trận
3- FC Barcelona (1986-1994), chơi 301 trận
4- Valencia (1994-1998), chơi 152 trận

Chơi trong màu áo đội tuyển quốc gia từ năm 1985 đến năm 1998 với tổng cộng 126 trận đấu

( Theo MR's Blog )
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Simonsen - Một người Đan Mạch vĩ đại

simonsen.jpg

Nhiều người đã từng đặt ra câu hỏi là liệu ngoài Michael Laudrup của Đan Mạch thì còn có cầu thủ nổi tiếng nào khác của Đan Mạch đã từng thi đấu cho Barca không? Câu trả lời là Có. Anh ta là một trong những cầu thủ đáng được săn đón nhất của Châu Âu trong thập kỷ 70-80. Và Barca đã từng sở hữu cầu thủ đó.

Nếu được hỏi về cầu thủ đã từng khoác áo Barcelona trong những năm đầu thập niên 80 đã từng giành danh hiệu quả bóng vàng Châu Âu thì không ai khác chính là Simonsen. Bởi đơn giản anh là cầu thủ chơi nổi bật và cũng nổi tiếng nhất của Barca vào thời điểm bấy giờ. Simonsen cũng đang giữ 1 kỷ lục khó bị phá vỡ đó là anh là cầu thủ duy nhất cho tới bây giờ đã từng chơi cả 3 trận chung kết ở 3 Cup danh giá nhất Châu Âu là C1, C2 và C3. Năm 1977 anh cũng đã ghi tên mình vào bảng vàng của bóng đá lục địa khi giành được danh hiệu quả bóng vàng Châu Âu sau những thành công nhất định trong màu áo câu lạc bộ Borussia M'gladbach của Đức.

Allan Rodenkam Simonsen là tên đầy đủ của cầu thủ người Đan Mạch này. Simonsen sinh ngày 15-12-1952 tại Vejle (Đan Mạch) Simonsen cũng đã trải qua nhiều câu lạc bộ trong sự nghiệp thi đấu của mình. Trưởng thành từ lò đào tạo của đội bóng quê nhà Vejle BK. Simonsen nhanh chóng tìm được chỗ đứng của mình trong màu áo câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach. Thành công nối tiếp thành công, sự nghiệp cầu thủ của Simonsen lên như diều gặp gió. Cuối thập kỷ 70, Barca đang dần thay đổi 1 bộ áo mới, 1 loạt cầu thủ mới được đưa về đội hình. Sự ra đi của 1 thế hệ tài năng như Johan Cruyff và Neeskens là 1 tổn thất to lớn. Và Simonsen là sự lựa chọn số 1 cho đội bóng xứ Catalan. Với "Trào lưu" ngoại nhập, Barca có trong tay 2 cầu thủ nước ngoài vô cùng ăn ý trên hàng công là Simonsen (Đan Mạch) và Krankl (Áo). Với bộ khung cực mạnh gồm Miguel, Sanchez, Simonsen, Krank hay Quini, Simonsen chẳng mất nhiều thời gian để có được danh hiệu đầu tiên trong màu áo Barca đó là đánh bại Sporting Gijon 3-1 trong trận chung kết cúp Nhà Vua. Chiến thắng lại đến với Simonsen và Barca trong năm sau đó ở cúp C2. Đáng nhớ nhất là ông cùng đồng đội đã vất vả thủ hòa được Tottenham vốn rất mạnh lúc bấy giờ với tỷ số 1-1 ngay trên sân đối phương, và chính Simonsen đích thân kết liễu đội bóng đến từ Anh quốc bằng bàn thắng tuyệt đẹp của mình và cũng là bàn thắng duy nhất của trận đấu qua đó giúp Barca có mặt trong trận chung kết. Sân Noucamp năm đó vinh dự được nâng cấp thêm để chuẩn bị cho trận khai mạc World Cup 1982. Chính vì vậy việc sân Noucamp được tổ chức trận chung kết cúp C2 năm 1982 quả là 1 điều tuyệt vời. Sức chứa sân trong trận chung kết lên tới con số 100.000 người. Trước sự cổ vũ nhiệt tình của khán giải nhà, Barca đã dễ dàng vượt qua Standard Lieja với tỷ số 2-1 trong trận chung kết đêm 12-5-1982. Trận đấu đó Simonsen đã góp công không nhỏ vào cuộc lội ngược dòng ngoạn mục cho đội nhà. Tuy Vandermissen sớm giúp đội bóng của Bỉ dẫn trước ngay ở phút thứ 7 nhưng với nỗ lực cá nhân xuất sắc, Simonsen đã quân bình tỷ số ngay phút cuối cùng hiệp 1 tạo tiền đề tâm lý thoải mái cho Barca trước khi Quini ấn định tỷ số ở phút 63 cho đội bóng xứ Catalan. Đó quả là 1 màn chào ra mắt không thể tốt hơn trước khi World Cup 1982 diễn ra. Giải đấu đó chính Simonsen đã giành được danh hiệu cầu thủ chơi xuất sắc nhất.

Tuy nhiên cuộc sống êm đẹp của anh chàng cầu thủ Bắc Âu này tại sân Noucamp đã không được tiếp diễn nữa khi sân Noucamp được tiếp đón thêm các nhân vật mới như "thiên thần tóc vàng" Bend Schuster và đặc biệt là Diego Maradona. Lúc bấy giờ luật thi đấu hạn chế cầu thủ nước ngoài trong đội bóng được áp dụng triệt để, và nhận thức rõ là mình không thể cạnh tranh được với "Cậu bé vàng" Marradona, hơn nữa 1 nước không thể có 2 Vua. Simonsen đã bí mật liên hệ với các câu lạc bộ khác. Và anh đã khiến cả giới bóng đá thời bấy giờ bất ngờ với quyết định chuyển sang đầu quân cho Charlton Athletic, đội bóng hạng 2 của Anh hồi đó với giá £300,000. Tuy nhiên khi đã bước sang tuổi xế chiều bên kia sườn dốc sự nghiệp, trong những năm bị "giam hãm" tại Charlton Athletic, Simonsen chỉ được ra sân có 16 trận đấu. Quá hờn dỗi trước cách đối xử đó, Simonsen đã quyết tâm đòi ra đi mặc dù ban lãnh đạo câu lạc bộ đã thuyết phục anh ở lại, thậm chí tăng gấp đôi lương, nhưng Simonsen vẫn quyết tâm ra đi. Anh nhận được nhiều lời mời từ phía Tottenham và các đội bóng ở SeriA, nhưng Simonsen đã lựa chọn đội bóng quê hương Vejle BK làm bến đỗ cuối cùng, đó cũng chính là nơi Simonsen khởi nghiệp sự nghiệp cầu thủ lừng lẫy của mình. Simonsen giã từ sân cỏ vào năm 1989 sau khi chơi cho Vejle BK 2 mùa bóng.

Trong sự nghiệp thi đấu quốc tế cho đội tuyển Đan Mạch, Simonsen cũng đã thi đấu 56 trận đấu, ghi được 21 bàn thắng. Ông cũng đã từng tham gia Olympics hè 1972 khi mới tròn 20 tuổi.

Sau khi từ giã bóng đá, Simonsen chuyển sang học lớp đào tạo huấn luyện viên. Ông đã dẫn dắt các đội tuyển quốc gia Faroe Islands từ năm 1994-2001 và Luxembourg từ năm 2001-2004.

Thành tích trong sự nghiệp:

Danish championship: 1971, 1972 và 1984 với Vejle BK
Danish Cup: 1972 với Vejle BK
German Bundesliga: 1975, 1976 và 1977 với Borussia M'gladbach
German Liga-Pokal: 1976 với Borussia M'gladbach
Spanish Cup: 1981 với FC Barcelona
UEFA Cup: 1975 và 1979 với Borussia M'gladbach
Cup Winners' Cup: 1982 với FC Barcelona

( Theo MR's Blog )
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Txiki Beguiristain

txiqui.jpg

Txiki Beguiristain từng là thành viên của Dream Team của Barcelona trong thập niên 90 dưới thời huấn luyện viên Johan Cruyff. Sự nghiệp của Txiki Beguiristain cũng thăng trầm như bao cầu thủ khác. Trải qua 4 đội bóng khác nhau là Real Sociedad, Barcelona, Deportivo, Urawa Red Diamonds và đã khoác áo cả đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha. Sau khi từ giã sự nghiệp sân cỏ, Txiki làm bình luận viên cho đài truyền hình Catalonia. Và bây giờ ông đang làm giám đốc kỹ thuật của Barcelona.

Beguiristain có tên thật là Aitor Beguiristain Mújica. Sinh ra và lớn lên tại Olaberria, Guipuzcoa. Beguiristain sinh ngày 12-8-1964 trong thời điểm mà cả đất nước Tây Ban Nha hoan hỷ với chức vô địch EURO 1964 đầu tiên (Và duy nhất cho tới thời điểm này). Mọi người vẫn thường gọi anh với cái tên trìu mến là Txiki Beguiristain khi anh thi đấu ở Tây Ban Nha vào những năm thập niên 80 của thế kỷ trước. Vốn ham mê trí bóng từ nhỏ và có năng khiếu bóng đá bẩm sinh, Txiki Beguiristain sớm được hãnh diện khoác áo cầu thủ chuyên nghiệp thi đấu tại giải đấu cao nhất của Tây Ban Nha. Khởi nghiệp ở vị trí tiền vệ phòng thủ thế nhưng với những phẩm chất đáng quý sẵn có của mình Txiki Beguiristain đã buộc phải nhớ đến anh trong vai trò của 1 người hộ công xuất sắc. Và vị trí tiền vệ tấn công đã trở thành sở trường đối với Txiki.

Beguiristain được chơi những trận đấu chuyên nghiệp đầu tiên trong cuộc đời mình ở màu áo của Real Sociedad. Năm 1982 anh đã lọt vào mắt xanh của huấn luyện viên John Toshack của Real Sociedad. Ông đã phát hiện ra tài năng của chàng trai trẻ 18 tuổi này và lôi kéo về bằng được. Và ông đã không hề nuối tiếc về quyết định của mình. Tên tuổi của Beguiristain nhanh chóng được khẳng định ngay sau đó. Bên cạnh những đồng đội xuất sắc như Luis Arconada, Roberto López Ufarte, José Mari Bakero và López-Rekarte đã đem lại nhiều chiến thắng ngọt ngào cho cổ động viên nhà. Và chiến thắng ngọt ngào nhất phải nói đến đó là Real Sociedad giành được chiếc Cup nhà Vua năm 1987. Trận đấu đó Beguiristain đã thi đấu xuất sắc khi kiến tạo cơ hội cho đồng đội và tự mình trực tiếp ghi 1 bàn thắng trong trận hòa 2-2 với A.Madrid, trận đấu sau đó đã kết thúc với phần thắng nghiêng về Sociedad sau loạt thi đấu luân lưu. Đó là những khoảng thời gian mà Real Sociedad thăng hoa, thậm chí có lúc Real Sociedad đã đè bẹp Barrcelona của Linker, Bend Schuster...với tỷ số 4-1. Trong 187 lần khoác áo Real Sociedad, Tixiki đã ghi được 23 bàn thắng và rất nhiều lần kiến tạo các cơ hội cho các đồng đội. Tuy nhiên "tuần trăng mật" với Real Socieda không thể kéo dài được lâu khi Barcelona tỏ ra là mảnh đất quá màu mỡ để anh phát huy thêm tài năng. Hơn nữa 2 đồng đội của anh ở Real Sociedad là Bakero và López-Rekarte cũng đã chuyển tới đầu quân cho đội bóng xứ Catalan. Và Barcelona đã có được sự phục vụ của anh vào mùa thu năm 1988 để bắt đầu mở ra cho Barca bước sang 1 trang sử mới...

Màn ra mắt của Txiki quả là mỹ mãn khi Barca giành chiến thắng trước đội bóng Varsseveld với tỷ số đậm đà 6-1 trong 1 trận đấu giao hữu. Tuy không trực tiếp ghi bàn nhưng Txiki đã tạo ra rất nhiều cơ hội cho Soler, Amor, Roberto và Miller ghi bàn. "Mối tình" mới với FC Barcelona bắt đầu tốt đẹp từ đó. Txiki liên tục có mặt trong đội hình xuất phát của Barca ở các trận đấu giao hữu sau đó. Và không có gì tốt đẹp hơn đối với Txiki khi anh có tên trong đội hình xuất phát trong trận khai mạc Liga với đội bóng láng giềng Espanyol. Trong trận Derby đầy kỷ niệm này Txiki đã trực tiếp ghi 1 bàn thắng góp phần vào chiến thắng trước đàn em Espanyol với tỷ số 2-0. Cùng với những cầu thủ xứ Basques có trong đội hình, Txiki đã cùng với Bakero, Andoni Zubizarreta, Julio Salinas và Goikoetxea tạo nên nền tảng vô cùng vững chắc của 1 Dream Team dưới thời Johan Cruyff. Và cũng chính với những con người ấy đã đi từ chiến thắng này cho đến chiến thắng khác, đem lại nhiều danh hiệu cho câu lạc bộ. Trong sự nghiệp 7 năm gắn bó với sân Noucamp, Txiki đã để lại dấu ấn của mình bằng các con số ấn tượng. Anh đã có 63 bàn thắng trong màu áo Barca ở La Liga trên tổng số 223 trận thi đấu. Đáng chú ý nhất ở đây là 2 cú Hat-trick vào lưới các đội bóng Real Valladolid (1991) và Real Zaragoza (1993)

Thế nhưng rồi Dream Team đã không còn là uy danh của nó, nội bộ lục đục, các thành viên khác tìm đường thoát thân. Johan Cruyff cũng hờn dỗi mà ra đi. Sau 2 mùa bóng liên tiếp phải kiên nhẫn với chiếc ghế dự bị đã làm Txiki nản lòng. Nhận thấy tương lai của mình ở sân Noucamp đang lụy dần, Txiki đã ký vào 1 bản hợp đồng mới với Deportivo La Coruña cùng với 2 ngưòi bạn đã sát cánh cùng anh trong những năm tháng khi còn ở Real Sodciedad là HLV John Toshack và cầu thủ López-Rekarte cũng chuyển từ Barca tới. Khát khao sau bao năm để khẳng định mình cuối cùng cũng được đền đáp khi Txiki cùng Deprortivo đánh bại chủ nhà Real Madrid trên sân Bernabeu với tỷ số 2-1. Với 2 mùa giải, trong 43 trận đấu trong màu áo của Deportivo tuy Beguiristain chỉ ghi được 4 bàn nhưng đó đều là những bàn thắng đáng quý bằng vàng. Bàn thắng cuối cùng của anh trong màu áo Deportivo cũng chính là bàn thắng duy nhất giúp Deportivo vượt qua CF Extremadura với tỷ số 1-0, và cũng qua đó giúp Deportivo kết thúc ở vị trí thứ 3 của mùa giải 1996/1997. Đó cũng là lần thi đấu cuối cùng của Txiki ở Tây Ban Nha.

Mến mộ tài năng của Txiki, các cổ động viên đã kêu gọi Txiki trở lại. Không để phụ lòng những người hâm mộ túc cầu giáo, một lần nữa Txiki khoác trên mình tấm áo cầu thủ. Ông thi đấu cho câu lạc bộ Urawa Red Diamonds. Sau 2 mùa giải chơi ở Nhật Bản ông quyết định từ giã sự nghiệp sân cỏ.
txiki_20040626.jpg

Trong màu áo đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha, Txiki đã thi đấu 22 trận và ghi được 6 bàn thắng. Trận ra mắt đầu tiên là trận thắng 2-1 trước Czechoslovakia. Ông cũng đã cùng đội tuyển Tây Ban Nha thi đấu ở 2 kỳ đại hội bóng đá lớn là EURO 1988 và World Cup 1994.

Các danh hiệu mà Txiki Beguiristain đã đạt được cùng các câu lạc bộ

Real Sociedad :
1 Supercopa de España (1982)
1 Copa del Rey (1987)

FC Barcelona
1 European Cup (1991/92)
4 Spanish Champions : 1990/91, 1991/92, 1992/93, 1993/94
1 European Cup Winners Cup (1989)
1 European Supercup (1992)
1 Copa del Rey (1990)

Deportivo de La Coruña
1 Supercopa de España (1995)

(Theo MR's Blog)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

lovebaxa

Cựu Cán bộ phòng Lịch sử
Cán bộ Xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
2,546
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
HÀ ĐÔNG
Barça đồng
0
Romario và câu chuyện cổ tích
romario.jpg


Những khu phố nghèo ở Rio de Janeiro xưa nay vẫn nổi tiếng với những tiếng vui đùa của bọn trẻ con đá bóng dưới lòng đường phố, với chúng dường như bóng đá là thú vui duy nhất để có thể giúp chúng quên đi những lo lắng về vật chất mà bố mẹ của chúng phải xoay sở, và cũng vì lẽ đó đã có biết bao nhiêu đứa trẻ đã thành danh bằng chính cái nghề "đá bóng" này để giúp gia đình đổi đời.

Bóng đá Nam Mỹ nói chung cũng như bóng đá Brazil nói riêng từ lâu đã được coi là vườn ươm cho những tài năng trẻ phát triển bởi những năng khiếu bẩm sinh có sẵn trong bất kỳ đứa trẻ đam mê môn thể thao vua này ở đất nước của vũ điệu Samba. Bọn trẻ con ở đây đá bóng tối ngày, sáng sớm cũng tụ tập đá bóng, khi các đường phố đã lên đèn thì tiếng nô đùa của bọn trẻ vẫn chưa dứt, thế nhưng con đường thực sự để nổi tiếng trên toàn thế giới thì không phải đứa bé nào cũng có được. Với những bạn cùng trang lứa, Romario đã có cái may mắn hơn hẳn nhờ những phẩm chất siêu việt của mình.

Sinh ra ở 1 khu phố nghèo, đời sống thấp kém bậc nhất của Rio de Janeiro, Romario cũng giống như bao bạn bè là chỉ đá bóng và phụ giúp các việc lặt vặt cho gia đình. Thân hình bé nhỏ và chắc nịch sau những giờ "lao động" trong gia đình đã tạo nên cho cậu bé Romario 1 tính cách lầm lì, khó gần và cục tính. Cũng chỉ vì tranh cướp 1 quả bóng với đám bạn mà Romario đã từng đánh nhau với cậu bạn đến nỗi bố mẹ phải can thì mới thôi. Chính bởi tính cách lầm lì đó đã giúp cho Romario được tâm lý thi đấu cực tốt khi chơi bóng, cộng với những phẩm chất cá nhân sẵn có, Romario đã được vào lò đào tạo trẻ của địa phương.

Romário de Souza Faria là tên đầy đủ của anh chàng tiền đạo nhỏ con này, thế nhưng cái tên Romário(Romario) vẫn được mọi người gọi 1 cách trìu mến khi nhắc tới anh. Nói đến Romario và đất nước Brazil thì đó như là một câu chuyện cổ tích đầy ly kỳ và thú vị của cuộc đời cầu thủ lắm tài nhưng cũng nhiều tật này...

Bắt đầu từ Vasco da Gama...

Trải qua các đội bóng nghiệp dư ở các giải trẻ, Vasco da Gama chính thức là nơi ghi dấu đầu tiên trong sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp của Romario. Chính nơi đây là bệ phóng cho Romario phát triển thêm tài năng của mình. Chức vô địch mùa giải 1987 và 1988 sau 4 mùa giải chơi cho Vasco da Gama là danh hiệu quý giá đầu tiên của anh chàng trước khi bước sang chân trời mới...

"Nhãn quan" tuyệt vời của Piet de Visser...

Lặn lội sang tận bên kia bán cầu để đi săn lùng các tài năng trẻ, Piet de Visser là chuyên gia săn lùng cầu thủ của PSV Eindhoven. Quan sát một thời gian dài tuy nhiên chỉ có cái tên Romario là được lọt vào danh sách của ông. Và PSV Eindhoven đã không thể bỏ lõ cơ hội quý giá của mình để chiêu mộ bằng được chàng "lùn" này. Có lẽ Piet de Visser đã không hề nuối tiếc về quyết định của mình bởi trong 4 năm thi đấu cho PSV, Romario đã cùng câu lạc bộ đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác. Cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 là thời kỳ hoàng kim của PSV, câu lạc bộ này đã giành được tới 3 chức vô địch quốc gia, 2 cúp quốc gia và 1 siêu cup Hà Lan. Tên tuổi của Romario nhanh chóng được khẳng định ở trời Âu và là mục tiêu chuyển nhượng hàng đầu của các đội bóng lớn....

Sức cuốn hút của Dream Team...

Dream Team khi đó đang là đội bóng đáng được xem nhất thế giới, với trong đội hình gồm những hảo thủ như Laudrup, Stoichkov, Zubizarreta, Koeman..., Romario chính là mảnh ghép còn thiếu duy nhất trong ý nghĩ của Johan Cruyff. Cuối cùng thì "phù thuỷ" người Hà Lan này cũng đã đạt được mong muốn của mình. Sở hữu trong tay đội hình mạnh nhất, Barcelona lần lượt loại các đối thủ trên con đường chinh phục danh hiệu Champions League lần thứ 2 trong lịch sử. Tuy nhiên AC Milan đã không cho Romario và các đồng đội có được cơ hội đó. Còn tại Liga năm đó, Romario đã trở thành hung thần cho các thủ môn đối phương. Anh đã hoàn tất chiến thắng cho Barca với danh hiệu Pichichi cho riêng mình với 30 bàn thắng cả mùa giải trên tổng số 91 bàn thắng mà Barca có được ở mùa giải đó. Khi còn chơi bóng trên sân Noucamp, có một trận đấu mà Romario không thể nào quên đó là trận đè bẹp Real Madrid trên thánh địa Noucamp với tỷ số 5-0, trận đấu đó Romario đã lập 1 cú Hattrick, kỳ tích đó tận 13 năm sau Messi mới có thể lặp lại được cho Barca. Tuy nhiên việc ra đi của Romario vào cuối mùa bóng là điều được mọi người dự đoán từ trước khi mà Dream Team không còn đoàn kết nữa, Dream Team "tan đàn xẻ nghé" và Barca cũng không còn là chính mình sau khi những ngôi sao rời bỏ đội bóng...

Câu chuyện cổ tích mùa hè năm 1994...

Chơi nổi bật trong màu áo Barca, Romario đã được huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia Brazil là Parreira triệu tập để thi đấu tại Copa America năm đó. Qua háo hức với lần triệu tập này Romario đã từ thành phố Barcelona bay nửa vòng trái đất trở về quê nhà để thi đấu. Thế nhưng món quà mà Romario đã được HLV Parreira ban tặng cho là phải ngồi mài quần trên băng ghế dự bị do tính khí nóng nảy của mình. Giận dỗi với quyết định đó đã gây ra mâu thuẫn giữa anh chàng và vị huấn luyện viên trưởng khó tính. Kể từ đó Romario chỉ về thi đấu cho Barcelona.

Vòng chung kết World Cup 1994 tại Mỹ đang đến gần và Brazil có thể có nguy cơ bị loại bởi phong độ yếu kém của mình. Chơi trong 1 bảng đấu gồm nhiều đối thủ khó nhằn, Brazil đã không có được phong độ tốt nhất và chịu tạm đứng thứ 2 của bảng đấu trước khi vòng đấu loại cuối cùng diễn ra, Brazil buộc phải thắng Urugoay trong trận đấu cuối cùng thì mới có thể giành được ngôi đầu bảng. Dư luận Brazil khi đó lên tiếng chỉ trích và gây sức ép cho HLV Parreira phải triệu tập Romario vào đội tuyển. Và 1 điều thần kỳ đã đến khi chính Romario lập cú đúp giúp Brazil giành thắng lợi 2-0 trước Urugoay để đứng đầu bảng và nghiễm nhiên giành 1 suất thẳng đến USA 94, đây quả là 1 màn "trả đũa" không thể tốt hơn mà Romario tặng cho người thày của mình. Qua đó Romario có tên chính thức trong danh sách đến Mỹ cùng người bạn thân Bebeto

Thế nhưng câu chuyện cổ tích này vẫn chưa dừng lại ở đó. Brazil tiếp dài chuỗi trận bất bại để giành Cup vàng Thế Giới sau khi đánh bại Italia trong trận chung kết bằng 1 màn đấu súng nghẹt thở. Mùa Hè đó Romario đã ghi 5 bàn thắng để giúp Brazil lên ngôi, sau chiến thắng đó của Brazil nhiều người vẫn tin vào chỉ có xảy ra trong chuyện cổ tích mới ly kỳ đến thế...

Hồi hương rồi trở lại Liga để rồi lại hồi hương-1 vòng tuần hoàn chưa chấm dứt...

Sau chiến thắng lên mây ở Mỹ, Romario đã quyết định rời bỏ La Liga để trở về quê nhà thi đấu cho 1 đội bóng khác của Rio de Janeiro là Flamengo, tuy nhiên trong lần tái ngộ này Romario đã thi đấu không được tốt như mong đợi. Và Valencia đã chèo kéo để chàng lùn này về với mình. Chơi 2 mùa bóng với Valencia và được thi đấu có 9 trận nhưng anh cũng đã ghi tới 5 bàn thắng. Quá ít cơ hội được ra sân, Romario lại có quyết định dở chứng quay trở lại thi đấu cho Flamengo, nhiều người cho rằng đó là quyết định sau khi Romario bị cơn chấn thương quái ác đúng vào lúc đội tuyển Brazil chuẩn bị lên đường tới Pháp để tham dự Worla Cup 1998. Mùa hè nước Pháp đã không có Romario như ở Mỹ cách đó 4 năm. Người ta đã không thể được chứng kiến cặp đôi Ro-Ro (Romario-Ronaldo) cùng làm tan nát bao hàng phòng ngự, và có thể đó chính là lý do tại sao Romario lại tỏ ra chán nản và muốn trở về quê hương đến thế. Khi đó Romario đã 32 tuổi, độ tuổi của bên kia sự nghiệp thi đấu. Người ta tin rằng Anh sớm sẽ giải nghệ một khi con đường quay trở lại đội tuyển quốc gia ngày càng trở nên mờ mịt và nhất là Brazil đã tìm được 1 người thủ lĩnh khác trên hàng công khi đó đang khoác áo Barcelona - Rivaldo....

Bôn ba khắp nơi....

Sau khi chơi 1 mùa bóng cho Flamengo, Romario quay trở lại đội bóng đã cưu mang mình là Vasco da Gama, anh tiếp tục chơi bóng ở đây cho đến năm 2002 và 1 năm sau lại chuyển đến Flamengo. Nhiều người cho rằng đây là quyết định kỳ quặc khi anh là khách du lịch làm 1 chuyến khứ hồi giữa Vasco da Gama và Flamengo quá nhiều. Dường như vẫn mến mộ tài năng của tuyển thủ Brazil này, câu lạc bộ Al Saad của Qatar quyết định mời anh về thi đấu với mức lương cao ngất ngưởng, nhưng với bản tính khó chiều của mình Romario chỉ trụ lại được ở Trung Đông có 3 tháng và Fluminense (một đội bóng khác của Rio de Janeiro) là bến đỗ mới của Romario. Cuộc dạo chơi vẫn chưa chấm dứt tại đây khi anh còn chuyển đi chuyển lại với rất nhiều CLB khác theo 1 vòng tuần hoàn khép kín : Vasco da Gama - Miami FC - Adelaïde United - Tupi - Adelaïde United - Vasco da Gama. Có 1 điều đặc biệt là Romario vẫn ghi bàn đều đặn bất chấp trong hàon cảnh như thế nào. Và không ai có thể tin được là 1 "ông già" lại có thể trở thành Vua phá lưới của giải vô địch quốc gia Brazil ở độ tuổi 39...

Romario - người đi vào lịch sử bóng đá thể giới

Lão tướng Romario (41 tuổi) đã có được bàn thắng thứ 1.000 sau 23 năm thi đấu, trong trận cầu giữa Vasco và Sport of Recife thuộc vòng 2 giải VĐQG Brazil. Bàn thắng được ghi từ chấm phạt đền. Sau pha làm bàn này, trận đấu đã bị gián đoạn trong 16 phút khi gia đình, vợ và các con của Romario cùng rất nhiều phóng viên đã chạy ùa vào sân để chúc mừng và phỏng vấn cựu tiền đạo của Barcelona. Romario sau đó cũng đã chạy quanh SVĐ Sao Januario để chia vui cùng các CĐV.

Romario đã đi vào lịch sử bóng đá thế giới với tư cách là người thứ 3 ghi được 100o bàn thắng. Nhiều người cho rằng có tới 71 bàn thắng do Romario ghi được là trong các giải đấu không chính thức, khi còn thi đấu cho đội bóng nghiệp dư hay với các đội bóng yếu nên không nên công nhận. Nhưng Pele cũng đã ghi rất nhiều bàn thắng kiểu như vậy. Có phải mọi người đã thần tượng hoá Pele mà quên đi mất còn có 1 nhân vật khác là anh, con người đã bước sang tuổi 41 và vẫn chứng minh cho mọi người thấy câu chuyện cổ tích của mình vẫn chưa có hồi kết thúc....

( Theo MR's Blog )[/img]
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Chủ đề mới nhất

Xã viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Giới thiệu

  • Barçamania Việt Nam thành lập từ năm 2005. Chúng tôi không thiên vị trong các thảo luận, đảm bảo thông tin chính xác không giả mạo. Chúng tôi cam kết xây dựng diễn đàn lành mạnh và phi lợi nhuận.
Top